Lịch sử dùng vàng trong y học
Kể từ khi được phát hiện, con người đã coi vàng là chất bất tử bởi khả năng kháng ăn mòn và oxy hóa. Do đó, vàng lần đầu tiên được sử dụng cho mục tiêu trường thọ trong nhiều nền văn hóa cổ đại ở Ấn Độ, Ai Cập và Trung Quốc. Bằng chứng đầu tiên về vàng để chữa bệnh có từ năm 2500 TCN ở Trung Quốc.
Sau đó, vàng được sử dụng rộng rãi bởi các bác sĩ và bác sĩ phẫu thuật Trung Quốc cổ đại, đặc biệt là trong trường hợp sốt, sởi hoặc nhiễm trùng. Ở thế giới phương Tây, vàng cũng được thần thánh hóa vì mối liên hệ mà nó có thể có với ánh sáng ấm áp mang lại sự sống của mặt trời.
Việc sử dụng vàng thực sự trong y học ở thế giới phương Tây bắt đầu vào khoảng năm 1300 SCN với việc phát hiện ra nước cường toan, hỗn hợp axit clohydric và axit nitric để hòa tan vàng. Và trong 400 năm tiếp theo, các nhà giả kim đã bị thuyết phục về mối quan hệ giữa mặt trời, vàng và trái tim con người, tương đương về mặt sinh lý với mặt trời trên trái đất.
Vào giữa thế kỷ 17, nhà giả kim thuật người Anh Nicholas Culpeper đã sử dụng một loại dây vàng để chữa bất kỳ căn bệnh nào do suy giảm sức sống bao gồm u sầu, ngất xỉu, sốt và ngã bệnh. Những người phản đối phương pháp chữa bệnh bằng vàng này nói với mọi người lúc bấy giờ rằng “vàng dù được chuẩn bị theo cách nào cũng không quý bằng khi nó ở trong túi của họ”. Về cách pha chế và chỉ định, điều đó có thể đúng và niềm tin vào vàng thần giảm sút nghiêm trọng trong thế kỷ 18.
Vai trò vàng trong y học hiện đại
Robert Koch (1843-1910), bác sĩ và nhà vi sinh vật học người Đức là một trong những nhà sinh vật học vĩ đại nhất trong thời đại của ông. Ông nhận giải Nobel y học năm 1905 cho công trình nghiên cứu về bệnh lao, tìm ra tác nhân gây bệnh. Ông cũng được biết đến với việc tạo ra “định đề Koch” hiện vẫn được sử dụng để liên kết mầm bệnh với bệnh tật. Trong quá trình nghiên cứu về M. Tuberculosis, vào năm 1980, Robert Koch đã phát hiện ra rằng vàng xyanua, K[Au(CN)2], có tác dụng kìm khuẩn đối với tác nhân gây bệnh lao.
Vào thời điểm đó, không có phương pháp điều trị bệnh lao nào nên trong khoảng 10 đến 15 năm, cả thế giới đã sử dụng vàng làm tiêu chuẩn vàng để điều trị bệnh lao nhưng về sau được chứng minh là không hiệu quả đối với bệnh lao. Sau 30 năm tranh luận về hiệu quả của liệu pháp vàng trong điều trị viêm khớp dạng thấp và một nghiên cứu lâm sàng do Hội đồng Bệnh thấp khớp Đế chế tài trợ, cuối cùng vào năm 1961, người ta đã báo cáo, liệu pháp vàng có hiệu quả đối với viêm khớp dạng thấp.
Hiện nay, ngoài allochrysin vẫn được tiêm bắp, một loại thuốc khác cũng được Cơ quan Quản lý Thực & Dược phẩm Mỹ (FDA) chấp thuận để điều trị viêm khớp dạng thấp là Auranofin. Auranofin đã được chấp thuận vào năm 1985, thuốc uống 2 lần/ngày. Gần đây người ta đã chứng minh rằng Auranofin có thể ức chế sự sao chép của Sars-CoV-2 và làm giảm tình trạng viêm trong tế bào người .
Công dụng mới của vàng trong chữa bệnh
Ngoại trừ những gì đã được mô tả trước đây, hầu như không có loại thuốc chứa vàng nào có sẵn trên thị trường. Đặc biệt kể từ khi Turkevich nghiên cứu về các hạt nano vàng, rất nhiều công việc đã được thực hiện để áp dụng các khả năng tuyệt vời của các hạt nano này trong phòng khám.
Trong xã hội của chúng ta, các hạt nano bị mang tiếng là không công bằng vì chúng thường bị coi là ô nhiễm và độc hại. Do kích thước nhỏ (trong cùng phạm vi của vi-rút), các hạt nano có thể xâm nhập vào cơ thể con người, các cơ quan và tế bào và tác động đến chúng. Nhưng cùng một đặc tính khi được làm chủ và tối ưu hóa tốt làm cho các hạt nano này trở thành công cụ tuyệt vời để nhắm mục tiêu, trực quan hóa và điều trị bệnh.Dưới đây là một số ứng dụng vàng trong y học hiện đại.
Trong 25 năm trở lại đây hầu như không có cải tiến mới nào về thuốc cản quang dùng trong lâm sàng. Nền tảng hóa học vẫn là tri-iodobenzene với những hạn chế đã biết như thời gian chụp ảnh ngắn, cần đặt ống thông trong nhiều trường hợp, đôi khi gây độc cho thận và độ tương phản kém ở những bệnh nhân lớn. Các hạt nano vàng có thể khắc phục được những hạn chế này.
Các hạt nano vàng dễ dàng chức năng hóa với peptide hoặc kháng thể cho phép nhắm mục tiêu vào các cơ quan hoặc tế bào cụ thể khiến chúng trở thành chất mang thuốc giả định tốt. Hơn nữa, việc vận chuyển các hạt nano vàng đến các mô khối u được tạo điều kiện thuận lợi nhờ hiệu ứng tăng cường tính thấm và lưu giữ (EPR). Đó là hiện tượng đặc trưng của khối u rắn. Để nuôi dưỡng hiệu quả, mô khối u cần có lượng chất dinh dưỡng và oxy cao vì các mạch máu mới được hình thành nhanh chóng và bị “rò rỉ”, gây ra sự tích tụ máu trong khối u, các đại phân tử và hạt nano nếu được tiêm vào tĩnh mạch.
Xạ trị là một trong những công cụ chính trong cuộc chiến chống ung thư. Mặc dù nó có hiệu quả cao trong việc tiêu diệt các tế bào khối u, nhưng vẫn có tác hại phụ đối với các tế bào khỏe cận kề. Nói chung, việc sử dụng các chất tăng cường vô tuyến sẽ cho phép tăng cường hiệu quả việc tiêu diệt các tế bào khối u với lượng bức xạ thấp hơn và do đó làm giảm tổn thương phụ.
Trong số các chất tăng cường vô tuyến (Radio Enhancer) thì các hạt nano vàng được đặc biệt quan tâm vì số nguyên tử cao của vàng.
Liệu pháp quang nhiệt (PTT) là một phương pháp điều trị y tế cục bộ bao gồm một “nền tảng” hóa học (ở đây là các hạt nano vàng) sẽ làm nóng khi kết hợp với một liệu pháp quang trị liệu bằng Tia hồng ngoại gần (NIR) cụ thể. Nhiệt độ tăng lên 7°C là đủ để tiêu diệt các tế bào khối u vì cả tia laser NIR và các hạt nano vàng đều trơ. Liệu pháp này có lợi thế lớn là nhắm mục tiêu kép, theo lý thuyết, cho phép giảm các tác dụng phụ. Ngoài ra vàng còn được sử dụng chiếu xạ laser NIR để “đốt cháy” các tế bào khối u với thiệt hại tài sản thế chấp tối thiểu, hạt nano vàng có thể xâm nhập vào một tế bào khối u ác tính
Các hạt nano vàng tiên tiến nhất thực sự hoạt động như một loại thuốc trực tiếp là CNM-Au8, một tinh thể nano vàng được thiết kế bởi Clene Nanomedicine. Thông thường, các hạt nano vàng được tổng hợp bằng cách khử muối vàng. Ngược lại, CNM-Au8 được tổng hợp thông qua phương pháp dựa trên kết tinh điện. Điều này mang lại hoạt tính xúc tác độc đáo cho CNM-Au8. Bảy thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II đang diễn ra chủ yếu đối với các chứng rối loạn thoái hóa thần kinh: Bệnh đa xơ cứng tái phát, Bệnh Parkinson, Bệnh xơ cứng teo cơ một bên (ALS). Tháng 7 năm 2019 FDA đã cấp phép cho dùng CNM-Au8 để điều trị ALS.
Tác giả bài viết: BVQT Minh Anh
Ý kiến khác