1. Zona thần kinh là bệnh gì?
Bệnh zona, còn gọi là herpes zoster, là một loại phát ban đau đớn xuất hiện ở một bên mặt hoặc cơ thể và do virus varicella zoster gây ra, virus varicella zoster cũng là thủ phạm gây bệnh thủy đậu. Mọi người ở mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh thủy đậu. Khi mắc thủy đậu và hồi phục, virus varicella zoster vẫn nằm im trong các tế bào thần kinh của con người, sau đó tái hoạt động, gây ra bệnh zona.
Bệnh zona có xu hướng xảy ra ở người lớn tuổi hoặc ở những người có hệ miễn dịch yếu. Khi một người già đi hoặc hệ thống miễn dịch suy yếu virus có thể hoạt động trở lại, di chuyển từ các tế bào thần kinh đến da, tạo ra phát ban do bệnh zona. Nếu một người chưa bao giờ mắc bệnh thủy đậu tiếp xúc với người đang bị nhiễm bệnh zona, họ có thể bị thủy đậu, không phải bệnh zona.
2. Ai dễ mắc bệnh zona ?
Bệnh zona là một tình trạng phổ biến, cứ ba người thì có một người gặp phải một trường hợp trong đời và hầu hết những người này chỉ gặp phải bệnh này một lần. Bệnh này phổ biến hơn ở người lớn tuổi và nguy cơ mắc bệnh zona nói chung tăng theo độ tuổi. Nhóm có rủi ro mắc bệnh zona cao bao gồm:
3. Nguyên nhân gây ra bệnh zona ?
Bệnh zona là do virus varicella zoster gây ra., đây cũng là virus gây ra bệnh thủy đậu. Mặc dù nguồn virus là như nhau, thủy đậu và bệnh zona là hai bệnh khác nhau và bệnh thủy đậu có xu hướng ít nghiêm trọng hơn.
Bệnh zona là do sự tái hoạt động của virus varicella zoster theo cơ chế: Sau khi một người khỏi bệnh thủy đậu, virus varicella zoster vẫn tồn tại trong các tế bào thần kinh. Sau đó, vi rút này có thể hoạt động trở lại khi hệ thống miễn dịch suy yếu. Hệ thống miễn dịch suy yếu, tuổi cao, mắc bệnh mãn tính… là lý do làm cho bệnh zona gia tăng.
4. Dấu hiệu và triệu chứng bệnh zona
Bệnh zona có thể bắt đầu bằng cảm giác đau rát hoặc bỏng rát, nhưng cũng có thể bắt đầu bằng cảm giác ngứa ran. Sau vài ngày, vết ban nổi lên như một phần của phát ban và đóng vảy sau 7 đến 10 ngày.
Phát ban có xu hướng có hình dạng nhất quán, nổi lên thành một đường sọc chạy quanh bên phải hoặc bên trái của cơ thể. Khu vực phát ban có xu hướng đi theo các kết nối thần kinh cụ thể đến cột sống.
Hiếm khi phát ban có thể lan rộng hơn, giống như bệnh thủy đậu. Điều này thường xảy ra hơn ở những người có hệ thống miễn dịch bị suy giảm. Đau là một triệu chứng phổ biến của bệnh zona. Bệnh nhân đôi khi mô tả nó như cảm giác như bị bắn hoặc nóng rát, nhưng nó cũng có thể biểu hiện dưới dạng ngứa ran khó chịu rồi chuyển sang phát ban.
Ngoài phát ban, các triệu chứng đi kèm khác có thể bao gồm sốt, nhức đầu và đau bụng. Một số bệnh nhân zona cũng cho biết nhạy cảm với ánh sáng và khó chịu trước khi phát ban.
5. Chẩn đoán và điều trị bệnh zona
Để chẩn đoán bệnh zona, các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe thường tìm kiếm sự hiện diện của phát ban đặc trưng. Nếu không có phát ban, bệnh zona có thể khó chẩn đoán.
Ở người trẻ tuổi, trẻ em và những người có hệ thống miễn dịch bị tổn thương có thể khó chẩn đoán vì bệnh zona đôi khi không có các kiểu triệu chứng giống nhau ở những nhóm này. Trong những trường hợp như vậy, bác sĩ có thể yêu cầu xét nghiệm chẩn đoán gọi là xét nghiệm PCR để xác định sự hiện diện của bệnh zona.
Đôi khi , bệnh zona có thể bị nhầm lẫn với các tình trạng khác, chẳng hạn như: Herpes đơn giản, bệnh chốc lở, viêm da tiếp xúc, ghẻ, nhiễm virus gây loét hoặc phồng rộp da…
Các lựa chọn điều trị bệnh zona bao gồm tự chăm sóc kết hợp với một số loại thuốc kê đơn và không kê đơn.
Để tự chăm sóc, bác sĩ có thể khuyên nên tắm nước ấm bằng bột yến mạch, thoa kem dưỡng da calamine hoặc chườm ướt để làm dịu sự khó chịu do phát ban và dùng thuốc giảm đau không kê đơn.
Trong một số trường hợp nhất định, bác sĩ có thể kê đơn thuốc giảm đau hoặc có thể kê đơn thuốc kháng virus để rút ngắn thời gian và mức độ nghiêm trọng của bệnh zona. Những loại thuốc này phải được sử dụng gần khi phát ban.
Hiện tại, có hai phiên bản vắc xin bệnh zona được trên khắp thế giới. Tiêm vaccine là biện pháp phòng zona hiệu quả nhất hiện nay. Hiện Việt Nam có vaccine zona thần kinh Shingrix do hãng dược GSK sản xuất, hiệu quả 97% ở nhóm từ 50 tuổi và đạt 70-87% ở nhóm từ 18 tuổi bị suy giảm hoặc ức chế miễn dịch hay có khả năng bị ức chế miễn dịch do bệnh lý, phương pháp điều trị. Đối với nhóm trên 50 tuổi trở lên, phác đồ tiêm gồm hai mũi cách nhau hai tháng. Nhóm từ 18 tuổi trở lên có nguy cơ cao tiêm hai mũi cách nhau một tháng.
Tác giả bài viết: BVQT Minh Anh
Ý kiến khác